- Về mặt lý luận, sốt là tình trạng thân nhiệt của cơ thể được đưa lên mức cân bằng nhiệt mới, cao hơn mức bình thường (37,8 độ C vào buổi chiều) do tác động của IL1α lên trung tâm điều hòa thân nhiệt ở vùng dưới đồi của não.
- IL-1α lại do các bạch cầu tiết ra khi chuẩn bị hay khởi đầu cho một phản ứng viêm, chống lại vi sinh vật, độc tố (trong các bệnh nhiễm trùng) hay một mô nào trong cơ thể là đối tượng của hệ miễn dịch tấn công (các bệnh viêm không do nhiễm trùng, tự miễn…)
- Phân biệt sốt với tăng thân nhiệt ác tính: Định nghĩa trên cho phép ta phân biệt với các trường hợp tăng thân nhiệt ác tính do cơ thể mất khả năng thải nhiệt (say nóng, say nắng, do thuốc liệt phó giao cảm..) khiến thân nhiệt bệnh nhân tăng dần lên mãi cho đến khi tử vong nếu không được xử trí thích hợp
- Trong trường hợp tăng thân nhiệt ác tính, người thầy thuốc phải làm hạ thân nhiệt ngay, với tất cả các biện pháp, kể cả biện pháp vật lý sơ đẳng nhất (nhúng toàn bộ cơ thể bệnh nhân vào bể nước có nhiệt độ thấp hơn khi cần thiết) để hạ nhiệt độ cơ thể (tất nhiên phải theo dõi để nhiệt độ không hạ quá mức). Trái lại, với sốt, trừ một số trường hợp, không cần thiết phải hạ nhiệt vì nhiệt độ chỉ tăng đến mức cân bằng mới rồi dừng lại và sốt vẫn là một phản ứng có ích cho cơ thể trong những trường hợp nhiễm trùng.
* Xác định sốt:
- Bằng cách lấy nhiệt độ. Nên lấy nhiệt độ cách xa bữa ăn, sau khi bệnh nhân nghỉ ngơi tại giường nửa giờ. Nên lấy nhiệt trung tâm (trực tràng). Nếu lấy ở nách hay ở miệng, phải cộng thêm nửa độ. Khi nhiệt độ bệnh nhân vượt quá 37,3 độ C buổi sáng hay 37,8 độ C buổi chiều, ta gọi là sốt.
- Ngoài phương pháp lấy nhiệt kế thông thường dùng thủy ngân hay rượu, hiện nay, có một số thiết bị đo nhiệt độ cơ thể bằng cảm biến hay bức xạ (dán trên da), đo nhiệt độ trong ống tai ngoài…Các thiết bị nầy có thể tiện lợi hơn, nhưng cần lưu ý một số nhược điểm.
- Nhiệt độ trên da không phải vùng nào cũng giống nhau, vì thế dùng thiết bị đo trên da, chỉ đo những vùng được bọc trong áo quần, không tiếp xúc với môi trường bên ngoài, nhất là về mùa lạnh hay trong phòng có điều hoà nhiệt độ vì sẽ làm sai lệch kết quả và cũng phải cộng thêm nửa độ như khi cặp nhiệt độ thông thường ở nách. Chú ý, trong trường hợp sốt, vùng trán thường nóng hơn những vùng khác (một phản xạ để làm hạ bớt nhiệt độ trước khi vào não của hệ thần kinh trung ương khi sốt vì tế bào não thường không quen với thay đổi của nội môi), nhưng cũng không phản ảnh trung thực bằng đo nhiệt độ bên trong cơ thể.
- Thiết bị đo bức xạ cơ thể toả ra trong ống tai ngoài thường khá chính xác, nhưng phải kiểm tra nguồn pin, vì khi pin yếu, cung cấp năng lượng không đủ, thường cho kết quả sai lệch
- Tốt nhất vẫn dùng phương pháp đo nhiệt độ cổ điển với nhiệt kế thông thường, trừ những trường hợp quá khó khăn (trẻ em sợ hãi, vùng vẫy, la hét, không chịu cặp nhiệt kế)
- Sau khi xác định được sốt, cần lưu ý ngay các tình trạng cấp cứu của bệnh nhân: co giật ? hôn mê? nhất là các chức năng sống như tuần hoàn và hô hấp.
* Chú ý: thời điểm xuất hiện cơn sốt, cách thức khởi phát cơn sốt (đột ngột hay từ từ), diễn tiến cơn sốt từ lúc khởi đầu đến lúc khám bệnh nhân, các thuốc bệnh nhân đã xử dụng (hạ nhiệt, kháng sinh..)